Theo The Economist, dầu Nga có thể không được bán với giá thấp như được tiết lộ chính thức, và sản lượng phần lớn không bị ảnh hưởng.
Vào tháng 12 năm 2022, phương Tây đã thực hiện một loạt các biện pháp trừng phạt năng lượng lớn nhất mà họ từng áp đặt đối với một quốc gia nhằm hạn chế thu nhập từ dầu mỏ của Nga. Mặc dù thực tế là châu Âu đã là người tiêu dùng lớn nhất của sản phẩm này, nhưng họ vẫn cấm nhập khẩu dầu thô của Nga bằng đường biển.
Ngoài ra, chúng ngăn cản các chủ tàu, ngân hàng và công ty bảo hiểm cung cấp dịch vụ chi tiêu cho dầu mỏ của Nga trừ khi các sản phẩm được chào bán với giá trần ít nhất là 60 USD/thùng.
Nhiều cá nhân trước đó đã dự đoán rằng loạt biện pháp trừng phạt này sẽ thành công lớn. Chưa kể, châu Âu sẽ giữ nguyên lệnh trừng phạt đối với nhiên liệu diesel và các sản phẩm tinh chế khác làm từ dầu mỏ của Nga có hiệu lực từ ngày 5/2.
Tuy nhiên, chỉ dựa trên thông tin được The Economist thu thập và kiểm tra, giá dầu của Nga không thay đổi đáng kể. Do đó, loạt lệnh trừng phạt dầu thô được ban hành vào tháng 12 đã không hạn chế xuất khẩu dầu của Nga. Sau một thời gian tạm dừng do các doanh nghiệp châu Âu duy trì mức giá trần, các lô hàng đã nhanh chóng tăng trở lại. Lần này, Trung Quốc và Ấn Độ là điểm dừng chân cuối cùng chứ không phải châu Âu.
Lượng dầu thô xuất khẩu trung bình của Nga trong 4 tuần đầu năm là 3,7 triệu thùng/ngày. Kể từ tháng 6 năm 2022, mức này đã tăng lên đáng kể, vượt qua tất cả các khoảng thời gian bốn tuần trong năm 2021.
Những người ủng hộ trần giá sẽ cho rằng đây là bằng chứng cho thấy chiến lược vẫn còn hiệu quả. Bởi vì gói trừng phạt nhằm mục đích giữ cho dầu mỏ của Nga được lưu thông, ổn định thị trường toàn cầu, đồng thời hạn chế giá cả để cho phép Nga mất đi một phần thu nhập. Họ cho rằng giới hạn giá cung cấp cho người mua khả năng trao đổi hàng hóa. Chi phí vận chuyển của Nga cũng tăng lên do các tuyến đường xuất khẩu dài hơn.
Một bằng chứng khác là khoảng cách giá giữa dầu Brent tiêu chuẩn và dầu Urals (Nga) ngày càng lớn, hiện lên tới 32 USD kể từ sau cuộc xung đột ở Ukraine. Phương Tây tính toán rằng dầu của Nga hiện đang được giao dịch với mức chiết khấu 38%. Ý tưởng thực thi trần giá, được hỗ trợ bởi Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen, đã được tuyên bố là có hiệu lực vào ngày 10 tháng Giêng.
Theo The Economist, vấn đề chính là dữ liệu giá dầu của phương Tây chưa được cập nhật để phản ánh môi trường mới. Không còn tiếp thị thông qua các thị trường mở, dầu của Nga.
Các nhà tinh chế và thương nhân ở châu Âu thường xuyên trao đổi thông tin với các công ty giám sát giá cả. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Ấn Độ thì không. Để xác định chi phí vận chuyển giữa các cảng phía tây nước Nga và các cảng dầu châu Âu, các quan chức phương Tây sử dụng các biện pháp sẵn có cho công chúng. Mặt khác, chi phí vận chuyển dầu từ Nga sang châu Á được xác định riêng lẻ.
Do đó, các con số chiết khấu do các quan chức phương Tây cung cấp là sai và thường bị phóng đại. Dữ liệu từ hải quan Ấn Độ và Trung Quốc tiết lộ rằng họ đã trả nhiều hơn hầu hết mọi người dự đoán cho dầu Ural trong suốt mùa đông trước.
Ngoài ra, xuất khẩu của Nga ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các dịch vụ hậu cần và tài chính của phương Tây. Kết quả là họ đã có thể rời khỏi vòng cấm.
“Chợ xám” và “chợ đen” là hai kênh giao dịch ngầm phổ biến, như The Economits đã nhận thấy trước đây. Trước tháng 12, một công ty vận chuyển hoặc ngân hàng châu Âu đã xử lý hơn một nửa lượng dầu thô ở miền tây nước Nga. Hiện tại, 36% của con số đó.
Nhìn chung, các nỗ lực phong tỏa sẽ ngày càng ít thành công, theo The Economist, khi ngày càng nhiều dầu của Nga rời khỏi sự kìm kẹp của phương Tây. Bài học cho phương Tây là các biện pháp trừng phạt không hiệu quả thay vì cung cấp thêm tài chính và vũ khí cho Ukraine. Cơ hội chiến thắng của Nga trong cuộc xung đột này khó có thể tăng lên khi thu nhập từ dầu giảm.